THƯƠNG MẠI VỚI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (AI)
Post by: chuxuan - Post date: Thursday, Dec 12, 2024 | 16:31 - View count: 27
AI ĐÃ ĐỊNH HÌNH VÀ ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH BỞI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ NHƯ THẾ NÀO
“AI đang thách thức cách chúng ta nghĩ về thế giới, và thương mại quốc tế không phải ngoại lệ, vì AI chắc chắn sẽ thay đổi hậu cần thương mại, quản lý chuỗi cung ứng và phát triển chúng thành một loại hình dịch vụ mới.”
Tiến sĩ Ngozi Okonjo-Iweala, Tổng Giám đốc WTO
Tháng 11/2024 vừa qua, một nhóm các chuyên gia đứng đầu là bà Johanna Hill, Phó Tổng Giám đốc và ông Ralph Ossa, Giám đốc Ban nghiên cứu kinh tế và thống kê của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đã công bố Báo cáo “Thương mại với trí tuệ nhân tạo – AI đã định hình và được định hình bởi thương mại quốc tế như thế nào”. Báo cáo dài 118 trang đã nêu vấn đề và tìm cách trả lời các câu hỏi về việc trí tuệ nhân tạo (AI) đã định hình thương mại quốc tế như thế nào, tại sao AI lại trở thành vấn đề của thương mại và các tác động của chính sách gắn với AI tại các quốc gia đối với thương mại.
Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, hiện nay AI có nhiều định nghĩa khác nhau do các tổ chức quốc tế đưa ra. Ví dụ, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa “Hệ thống AI” là “ một hệ thống dựa trên máy móc, với mục đích rõ ràng hoặc ngầm định, tổng hợp kết quả ví dụ như những dự đoán, nội dung, lời khuyên hoặc quyết định có thể ảnh hưởng môi trường thực tế hoặc ảo, bằng đầu vào mà nó nhận được. Các hệ thống AI khác nhau có mức độ tự chủ và khả năng thích ứng khác nhau sau khi triển khai”. Trong khi đó, Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) định nghĩa hệ thống AI là “một hệ thống được thiết kế để tổng hợp đầu ra như nội dung, dự đoán, lời khuyên hoặc quyết định cho tập hợp các mục tiêu do con người quyết định”.
Vậy, AI đã định hình và được định hình bởi thương mại quốc tế như thế nào? Với nghiên cứu này, các chuyên gia đã chỉ ra rằng tác động rộng khắp và mang tính chuyển đổi mà AI tạo ra cho xã hội hiện nay rơi vào tất cả các lĩnh vực, từ công ăn việc làm, sản xuất và thương mại tới y tế, nghệ thuật và hoạt động giải trí. Những lợi ích của AI được kỳ vọng sẽ giảm chi phí thương mại, tăng năng suất và đổi mới đồng thời định hình lại lợi thế so sách của nền kinh tế, tạo ra những cơ hội và lợi ích kinh tế, xã hội mới chưa từng có. Một môi trường thương mại quốc tế mới được xây dựng để tạo thuận lợi cho những thay đổi này là chìa khóa để AI phát triển hơn nữa và gặt hái những lợi ích cũng như cơ hội thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển và ứng dụng của AI cũng làm phát sinh những rủi ro đáng kể về xã hội và đạo đức, bao gồm cả thương mại. AI là một vấn đề của toàn cầu và khi Chính phủ bắt đầu quản lý AI thì hợp tác toàn cầu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Câu hỏi tiếp theo mà Báo cáo đã phân tích đó là tại sao AI lại là một vấn đề thương mại? AI khác biệt với các công nghệ kỹ thuật số khác ở nhiều điểm và AI có khả năng ảnh hưởng tới thương mại quốc tế.
AI có thể cải thiện đáng kể hiệu quả thương mại bằng cách tăng cường hậu cần thương mại, quản lý chuỗi cung ứng và tuân thủ quy định. AI có thể tự động hóa quy trình thông quan, điều hướng các quy định phức tạp và dự đoán rủi ro. Các công cụ dựa trên AI khuếch đại khả năng hiển thị chuỗi cung ứng thông qua phân tích dữ liệu thời gian thực và quy trình ra quyết định tự động. Điều này có thể giảm chi phí thương mại và cân bằng sân chơi cho các nền kinh tế đang phát triển và các doanh nghiệp nhỏ. AI có khả năng chuyển đổi các mô hình thương mại trong các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ được cung cấp kỹ thuật số, bằng cách cho phép người lao động có kỹ năng thấp tận dụng các phương pháp hay nhất của những người lao động có kỹ năng cao. Tuy nhiên, ngược lại AI đã và sẽ làm giảm nhu cầu đối với dịch vụ truyền thống và giảm nhu cầu thuê ngoài một số dịch vụ nhất định. Khi ứng dụng AI tiếp tục lan rộng, nhu cầu và hoạt động thương mại đối với các sản phẩm liên quan đến công nghệ, chẳng hạn như dịch vụ máy tính và viễn thông, các công cụ phát triển chuyên biệt và thư viện phần mềm sẽ tăng lên.
AI cũng có thể định hình lại lợi thế so sánh của nền kinh tế bằng cách tăng năng suất trên tất cả các lĩnh vực và thay đổi động lực sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển và kiểm soát công nghệ AI có khả năng vẫn tập trung ở các nền kinh tế lớn và các công ty AI tiên tiến, dẫn đến sự tập trung công nghiệp.
Việc áp dụng AI tạo ra sự thúc đẩy đáng kể về năng suất và giảm chi phí thương mại, dẫn đến tăng trưởng thương mại và GDP toàn cầu. Hai kịch bản đã được Báo cáo mô phỏng với mô hình thương mại toàn cầu. Kịch bản lạc quan cho thấy áp dụng AI toàn cầu và tăng năng suất cao cho đến năm 2040 có thể dẫn tới tăng trưởng thương mại thực tế toàn gần 14 điểm phần trăm. Kịch bản khác cho thấy áp dụng AI không đồng đều và tăng năng suất thấp dẫn tới tăng trưởng thương mại chỉ dưới 7 điểm phần trăm. Tác động mà AI tạo ra đối với thương mại và GDP toàn cầu khác nhau giữa các nền kinh tế và lĩnh vực, tùy thuộc vào sự đổi mới và chính sách. Các dịch vụ được cung cấp kỹ thuật số dự kiến sẽ có mức tăng trưởng thương mại cao nhất, với kịch bản lạc quan về việc áp dụng AI toàn cầu dẫn đến tăng trưởng tích lũy gần 18 điểm phần trăm.
Từ những phân tích về tác động tích cực và rủi ro mà AI mang lại, các chuyên gia đã chỉ ra trong báo cáo những chính sách mà chính phủ đưa ra để quản lý AI đã tác động tới thương mại như thế nào.
Tiềm năng định hình lại thương mại quốc tế của AI đặt ra những câu hỏi về chính sách, bao gồm rủi ro về sự phân tách AI ngày càng gia tăng, những thách thức về quản trị dữ liệu và nhu cầu đảm bảo độ tin cậy và quyền sở hữu trí tuệ. Việc triển khai AI ở cấp độ trong nước, khu vực và quốc tế kéo theo cả lợi ích và rủi ro, và việc thiếu sự phối hợp có thể gây ra sự phân mảnh về mặt quy định. Vì năng lực phát triển AI hiện tại tập trung ở một số ít nền kinh tế lớn nên có sự phân chia đáng kể giữa các nền kinh tế dẫn đầu về AI và phần còn lại của thế giới. Các hạn chế về luồng dữ liệu có thể cản trở sự đổi mới AI, làm tăng chi phí và tác động tiêu cực đến thương mại. Cần phải có sự đánh đổi hợp lý giữa quyền truy cập dữ liệu và bảo vệ quyền riêng tư.
Độ tin cậy của AI rất quan trọng đối với thương mại, nhưng việc cân bằng độ tin cậy, bảo mật, quyền riêng tư, an toàn, trách nhiệm giải trình và chất lượng có thể là một thách thức do bản chất không minh bạch và khả năng sử dụng kép của nó. Các quy định truyền thống có thể không giải quyết được mọi rủi ro tiềm ẩn và AI đặt ra những thách thức mới đối với quyền sở hữu trí tuệ truyền thống. Các chính phủ đang triển khai các chiến lược và chính sách AI để thúc đẩy sự phát triển và sử dụng AI, nhưng hầu hết đều được các nền kinh tế phát triển triển khai, có khả năng làm sâu sắc thêm sự phân chia AI.
Hình ảnh mới nổi về các biện pháp phân mảnh và sáng kiến trong nước có thể dẫn đến sự phân mảnh về quy định, tác động trực tiếp đến các quy định cụ thể về AI, luật pháp cụ thể theo ngành và các tác động bóp méo thương mại. Chi phí kinh tế của tính không đồng nhất về quy định, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ, là rất lớn, với sự phân mảnh dẫn đến mất hơn 1% GDP thực. Số lượng sáng kiến hợp tác song phương và khu vực ngày càng tăng về quản trị AI làm tăng thêm nguy cơ tạo ra các cách tiếp cận phân mảnh. Các hiệp định thương mại khu vực (RTA) và các thỏa thuận kinh tế kỹ thuật số là những cơ chế quan trọng để thúc đẩy và quản lý AI, với các điều khoản cụ thể về AI chủ yếu ở dạng các điều khoản “mềm” không ràng buộc. Tuy nhiên, mức độ sâu sắc của các điều khoản thương mại kỹ thuật số trong RTA thay đổi đáng kể, phản ánh các cách tiếp cận khác nhau. Các nguyên tắc về thương mại dịch vụ trong RTA cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến môi trường chính sách cho AI.
Mặc dù các sáng kiến quốc tế liên quan đến AI đã xuất hiện trong những năm gần đây, tập trung vào các khía cạnh khác nhau của quản trị AI, bao gồm các quy định, tiêu chuẩn, quyền sở hữu trí tuệ, quyền riêng tư và quản trị dữ liệu; tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất toàn cầu về thuật ngữ AI, điều này có thể hạn chế các nỗ lực triển khai. Các tổ chức quốc tế như ITU, UNESCO, UNIDO và Ngân hàng Thế giới đang phát triển các khóa học về AI, với sự hỗ trợ của chính AI trong các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật phù hợp. WTO, với tư cách là cơ quan toàn cầu duy nhất dựa trên luật lệ giải quyết chính sách thương mại, có thể giúp thúc đẩy lợi ích và hạn chế rủi ro của AI, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hàng hóa và dịch vụ liên quan đến AI.
Trong bối cảnh đó, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đóng vai trò quan trọng là diễn đàn để tăng cường hài hòa toàn cầu thông qua minh bạch hóa, không phân biệt đối xử, thảo luận mở và trao đổi thực hành tốt. Những Hiệp định như Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) của WTO cho phép các nước thành viên WTO nắm bắt được thông tin về việc xây dựng biện pháp quản lý, ngăn rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại và thúc đẩy sự hội tụ toàn cầu. Trên thực tế, các nước Thành viên WTO đã tăng cường thông báo các quy định về công nghệ số như an ninh mạng và IoT/robotics cho Ủy ban TBT cùng đóng góp của Cơ chế Rà soát Chính sách thương mại về minh bạch hóa trong chính sách thương mại.
WTO ưu tiên tăng cường hài hòa quản lý thông qua tiêu chuẩn quốc tế, thừa nhận lẫn nhau và tương đương. Đó là những điểm mấu chốt của nỗ lực toàn cầu nhằm tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ và hàng hóa cho phép hoặc được cho phép bởi AI. Hiệp định TBT đảm bảo rằng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật liên quan tới AI không hạn chế thương mại và tối ưu cho các mục tiêu chính sách đang theo đuổi.
Để đáp ứng với sự phát triển AI, WTO đã xây dựng các nguyên tắc và hướng dẫn nhằm hỗ trợ thương mại đối với sản phẩm và hệ thống AI, giảm thiểu các tác động tiêu cực. Các nguyên tắc này bao gồm không phân biệt đối xử, Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMS) và Hiệp định chống bán phá giá và phòng vệ thương mại (SCM). WTO cũng hỗ trợ ngăn và giả quyết các căng thẳng thương mại từ “quan ngại thương mại” (STC) và tạo diễn đàn toàn cầu giải quyết các tranh chấp liên quan tới thương mại thông qua Hệ thống giải quyết tranh chấp.
Đóng vai trò như một diễn đàn cho đàm phán, thảo luận và đưa ra quyết định, WTO có thể đóng góp vào việc tăng cường thúc đẩy khung quản lý AI, hài hòa chính sách và xem xét mối giao thoa giữa thương mại và AI. Vì AI vẫn đang tiếp tục phát triển, các nước cần tiếp tục thảo luận về mối giao thoa này và tác động có thể có đối với các nguyên tắc của WTO.